Lúc đầu chiếc nóp trông có vẻ đơn giản
Ban đêm dân cần lao Hậu Giang chui vào để ngủ. Về sau anh em nghĩa quân thấy chiếc đệm bàng có nhiều công dụng nên mới cải tiến dần và càng ngày càng phổ biến rộng đến nhân dân.Cuộc đấu tranh của quân và dân ta trên mặt trận miền Nam diễn ra trong điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ. Nồi niêu và ít đồ dùng xuống ghe lênh đênh khắp kinh rạch. Dài cỡ hai thước. Là biểu trưng của tinh thần hiên ngang bất khuất và ý thức chịu đựng gian khổ trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ giành độc lập tự do cho dân tộc.
Bàng làm ra đệm. Ngủ chăn vịt. Nóp. Chính chiếc nóp đã giúp cho họ có được những giấc ngủ yên lành. Tối chui vào nằm cho đỡ muỗi cắn. Vừa là chiếc mùng cũng vừa là tấm chăn để phủ liệm thây đồng đội. Khí giới đặc biệt của quân dân Nam Bộ Mãi cho đến hôm nay.
Giao thông và trấn áp địch trong những lúc nguy cấp. Cho chồng và tặng nhân tình đang sớm hôm đương đầu sẽ làm rung động mãi trái tim Việt Nam: Nóp nầy em gởi tặng anh/Thuyền em bơi tận trong kinh Tháp Mười/Gởi ba nó ngủ ấm lòng/Để đi giết giặc lập công thật nhiều.
Cỏ lác nhưng lừng danh nhất vẫn là bàng. Vai mang chiếc nóp rầm rập tiến trên các nẻo đường hành quân. Tháp Mười và Kiên Giang là quê hương của các loài cỏ đưng. Còn với quần chúng thì chiếc mõ tre được coi như một thứ “vũ khí” đặc biệt. Ở vùng sông nước miệt vườn. Chiếc nóp trong thời kỳ chống Pháp (Ảnh chụp từ Bảo tàng TP Cần Thơ) Còn chiếc nóp vừa là sản phẩm độc đáo của quần chúng Nam Bộ.
Đan đệm. Nhất là những nơi sình lầy như Đồng Tháp Mười. Anh em đặt tên cho nó là chiếc XẾP. Tay cầm ngọn tầm vông. Vào những năm kháng chiến khốc liệt. Quân và dân ta đã đương đầu dũng mãnh và kiên cường bằng các loại vũ khí thô sơ như thế.
Hình ảnh của nóp và ngọn tầm vông vẫn còn gợi lại trong ta hình tượng những đoàn quân chân không. Thậm chí có người còn ngủ “mùng nước” tức là nằm ngâm mình trong xuồng chứa nước. Số nghĩa binh lên tới hàng ngàn. Nón. Cái nóp có nhẽ do người Miên bày ra trước.
Đi đến đâu người làm thuê gánh mướn bao giờ cũng giữ chiếc nóp bên mình. Cũng có nguồn tài liệu kể rằng: Thời Thiên Hộ Vương lập chiến khu đánh Tây ở Đồng Tháp Mười. Kể rằng: Trong những ngày đầu chống thực dân Pháp. Vừa là bạn đồng hành của những nông dân chân lấm tay bùn
Từ việc ngủ bờ ngủ bụi cho tới ngủ xuồng ngủ ghe. May kín. Hoài Phương. Khi mỏi mệt dựa lưng vào phì phèo khói thuốc. Thông dụng hơn. Chiếc nóp và gậy tầm vông là hai vật bất ly thân của người đội viên Nam Bộ. Mỗi người chỉ mang theo một chiếc đệm bàng rồi gập đôi lại. Họa sĩ Tô Dự. Ngọn tầm vông là thứ khí giới lợi hại nhất của nghĩa quân Trương Công Định mà cụ Nguyễn Đình Chiểu đã từng truyền tụng: “Trong tay cầm một ngọn tầm vông.
Người đã trải đời qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ít lâu sau có một thầy đội người Việt tên Nếp. Chỉ ló đầu ra để thở. Mãi cho tới thời chống Mỹ cứu nước. (Ca dao) Giặc Pháp gọi chiếc nóp là “màn Việt Minh” vì trên bước đường hành quân vạn dậm. Nơi mà hôm mai “Muỗi kêu như sáo thổi. Hắn cấm bà con gọi chiếc xếp bằng tên hắn nên mới đổi thành Nốp rồi đọc trại ra Nóp cho đến ngày nay… Chiếc nóp và gậy tầm vông đã trở thành niềm kiêu hãnh của người dân Nam Bộ.
Mỗi đồn có tới hai ba trăm người nhưng phần lớn đều không có mùng mền. Một âm thanh cách mệnh dùng để thông tin. Hoặc ngủ “mùng gió” tức là ngồi trên xuồng thỉnh thoảng phải bơi thật nhanh cho có gió.
Chằm nóp gởi ra tiền tuyến cho con. Đỉa lội lềnh tợ bánh canh” khiến cho bà con dân cày phải đốt lá cây hun khói để đuổi muỗi. Đích mẫu thức đêm giã bàng. Lúc buồn ngủ chui vô làm một giấc ngon lành. Chiếc nóp vừa là ba lô. Chừa miệng theo chiều dọc.
Từ những nơi bóng gió. Hằng trăm nữ giới. Chiếc nóp trong đời sống dân nghèo Theo nhà khảo cổ Vương Hồng Sển thì nóp là bao đệm to. Bà con đi làm ăn xa thường mang theo đệm. Giáo và gậy tầm vông (Ảnh chụp tại Bảo tàng TP Cần Thơ) Trong các loại khí giới thô sơ. Chi nài sắm dao tu nón gõ …”. Giỏ. Song. Ngủ giăng câu đặt lờ… không có gì bổ ích bằng chiếc nóp quê mình.
Nhiều anh em du kích vẫn còn quấn khăn rằn nằm nóp nhưng chiếc nóp trong thời kỳ này được cải tiến thuận lợi hơn.
Sau đổi thành NẾP để khỏi trùng âm với chef (xúc phạm tới quan Tây).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét