Theo thời kì, năm tháng, trước những xô bồ của cuộc sống, trước cơn lốc của thời hội nhập, rất nhiều thứ, nhiều giá trị đã bị cuốn trôi, song với người Thăng Long, Hà Nội, dù cho đi đâu ở đâu, họ vẫn luôn lặng thầm giữ gìn nếp nhà, giữ văn hóa đất Tràng An qua việc dậy bảo con cháu cách nói năng, đi đứng, ăn uống và tất nhiên chẳng thể thiếu văn hóa mặc đất Kinh Kỳ mà họ luôn tự hào. Sang trọng tiến trình lịch sử, cách ăn mặc của người Hà Nội cũng có sự đổi thay theo mỗi thời đại, nhưng vẫn giữ được nét thanh lịch, đậm nét văn hóa của vùng Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến. Cùng tìm về nét đẹp trong y phục của người Hà Nội xưa để càng trân trọng hơn những giá trị văn hóa trên mảnh đất Thăng Long. Nhiều bằng cớ khoa học cho thấy người Hà Nội biết cách ăn mặc đẹp từ thời Hùng Vương. Nhìn vào những hình trang trí trên trống đồng Cổ Loa (đào được trong lòng đất Cổ Loa, Đông Anh - Hà Nội) đã có thể tưởng tượng được người Hà Nội khi đó trong y phục ngày hội: đầu đội mũ có gắn lông chim, quần áo cũng làm bằng long chim. Cũng có thể đó là hình những chiến binh đang cầm vũ khí, trên vũ khí lại được cắm lông chim vì chim chừng như là vật tổ của cộng đồng người Việt cổ khi đó, hình ảnh này được miêu tả đáng yêu và phổ biến trên trống đồng. Cũng có cảnh đôi trai gái giã gạo, người con trai được biểu hiện như mặc khố chứ không phải mặc áp ngày hội. Hình ảnh y phục còn được miêu tả hết sức sống động và duyên dáng nơi tượng người phụ nữ khắc họa trên cán dao găn thời này: mặc áo chẽn, bó gọn lưng ong, váy dài chấm gót, có nhiều hoa văn đẹp trên váy áo, thắt lưng ngang hông, đầu đội mũ cao, thắt dải ngang trán. Trong các triều đại phong kiến, có thể có sự phân biệt giữa xã hội vua, quan và quần chúng. #. Nam giới thuộc tầng lớp bình dân trong trang phục cần lao thường ngày, có thể vẫn là đóng khố, hợp với sản xuất cũng như thời tiết nóng ẩm. Phụ nữ mặc váy cho đến thời Minh Mạng. Có thể nói trang phục bình dân không có sự đổi thay nhiều suốt gần hai ngàn năm. Xã hội quý tộc ở kinh đô Thăng Long - Đông Đô thì y phục khá cầu kỳ và được ghi chép rất kỹ càng trong sử sách. Vào thời Lý, năm Canh Thìn (1040), vua xuống chiếu phát hết gấm vóc ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc. (Đại Việt Sử ký toàn thư. Bản kỷ, quyển thứ hai, kỷ nhà Lý). Vào thời Trần, năm Hưng Long thứ tám (1300), quy định kiểu mũ áo: Quan văn thì đội mũ chữ đinh màu đen, tụng quan thì đội mũ toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ, ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến 1 thước 2 tấc. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có 2 vòng vàng đính vào hai bên -Đại Việt Sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển thứ năm, kỷ nhà Trần). Từ thời Lê về sau, trang phục quý tộc có quy định chém đẹp hơn dựa trên phẩm hàm: Các quan văn võ từ nhất phẩm đến tam phẩm thì áo: xuân, hạ dùng sa tàu; thu, đông dùng đoạn tàu; đều màu huyền; khăn: hàng văn thì hai tao (vòng), hàng võ thì một tao. Các quan tứ phẩm thì áo được dùng sa và đoạn nhưng bằng hàng ta. Các thị nội giám khăn binh đinh, sau đổi làm khăn lục lăng. Các quan văn võ và nội giám, được sung vào chấp sự, khi hành lễ và làm việc đều mặc áo thanh cát và đội mũ sa thâm. Quan văn khi vào hầu ở Nội các cũng vậy.Tư". Người Hà Nội thời cận kim rất chú ý đến cách ăn mặc. Khâu đầu tiên là lựa chọn chất liệu của áo xống. Chất liệu may áo chuộng, lúc đó là the mà phải là the dệt bằng tơ tằm, dệt thưa, nhuộm thâm, thường là the làng La Cả. Chất liệu may quần của nữ là lĩnh làng Bưởi mới là hàng tốt nhất, sợi mịn, mặt bóng. Quần của nam giới là lụa trắng làng Cổ Đô. Ngoài ra, một số chất liệu vải cao cấp cũng hay được dùng như: sa, xuyến, băng, là, xồi, đũi, nhiễu.... Đều là sản phẩm của các làng nghề ở Hà Nội hay các tỉnh lân cận sản xuất. Một số hàng đặc biệt hơn dành cho vương hầu là đoạn, gấm, vóc,... Thị dân các phố nghề, buôn bán, cần lao thì ưaquần áo màu thâm, trắng và nâu. Quần áo nuộm bằng củ nâu vừa bền màu vừa bền sợi. Phường Đồng Lâm có nghề nhuộm vải nâu nổi tiếng. Thiếu nữ mới lớn thích nhuộm màu nâu non để tôn thêm vẻ đẹp nước da trắng ngần. Các ông bà thì thích nhuộm màu tiết dê. Phường Hàng Đào lại có nghề nhuộm điều.Thợ may Hà thành rất khéo tay, biểu thị ở những kiểu áo quần, áo tứ thân (4 thân) là một trong những loại áo nữ giới cổ nhất mà nay được biết. Khi mặc, người ta còn có dây lưng bao xanh duyên dáng kèm theo. Một vài trường hợp thực dụng hơn, người ta thắt một cái "ruột tượng: thay cho dây lưng để đựng tiền và các thứ nhỏ nhặt. Một số người còn đeo bên cạnh dây lưng một chiếc xà tích bằng bạc đựng vôi ăn trầu. Có khi áo tứ thân còn thêm một vạt để cài khuy, thường là 5 khuy. Bên trong áo tứ thân là yếm trắng, yếm đào. Người Hà Nội có văn hóa mặc rất đặc trưng. Họ mặc đẹp, cái đẹp của sự nền, kín đáo chứ không phô trương, lòe loẹt. Nét văn hóa đặc trưng này luôn được họ giữ gìn ngay cả trong thời chiến tranh thiếu thốn, những năm bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc của thời kỳ mở cửa. Mỗi thời kỳ lại có những y phục riêng nhưng tuốt tuột đều tuân theo "mẫu số chung": đó là sự thanh nhã. Trước năm 1954, phụ nữ trong các gia đình trí thức, tư sản cứ bước ra đường, dù chỉ là đi chợ cũng mặc áo dài. Thậm chí ở những gia đình buôn bán luôn có khách ra vào thì người đàn bà trong gia đình đó cả khi ở nhà cũng mặc áo dài. Ngày lễ tết lại có những chiếc áo riêng, đẹp và qua hơn. Phụ nữ cần lao thì mặc áo tứ thân mớ ba mớ bẩy. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, những nữ giới lớn tuổi trong các gia đình tư sản trước kia phải khó khăn lắm mới làm quen được với chiếc áo sơ mi thay cho áo tân thời. Còn những người trẻ và tích cực thì dễ dàng hòa nhập hơn. Và như thế, chiếc áo dài đã gần như vắng bóng suốt một thời kì khó của tổ quốc từ những năm 60 cho đến tận cuối những năm 80 của thế kỉ trước. Trong những năm đầu thế kỷ XXI này, ngoài những trang phục đã trở thành lễ phục của cả nước như áo dài cho đàn bà, áo vest, sơ mi, quần Tây cho nam giới, người Hà Nội còn sáng tạo ra vô vàn mốt quần áo mới phù hợp với mọi tầng lớp nhân dân và cũng chịu ảnh hưởng của thời trang quốc tế. Và hôm nay, dù cho thời kì, năm tháng chảy trôi, trước những xu hướng thời trang quốc tế, trước những xô bồ của cuộc sống, trước cơn lốc của thời hội nhập, rất nhiều thứ, nhiều giá trị đã bị đổi thay, thì vẫn còn đó các đời nơi Hà Nội 36 phố xá nối tiếp nhau giữ hồn túy đất Thăng Long văn hiến. Họ vẫn hòa nhập với thời cục với các loại váy áo phương Tây trẻ trung, đương đại nhưng cũng không rời xa nét Tràng An thanh lịch. Nơi mỗi vạt áo của những người con đất Thủ đô nghe đâu ta vẫn thấy hồn Thăng Long vương vất. Và như một quy luật thế tất của lịch sử, trang phục của người Thăng Long-Hà Nội đã có nhiều thay qua từng thời đại. Tuy nhiên nét riêng độc đáo từ vẻ đẹp lịch sự, trang nhã trong phong cách ăn mặc và trong kiểu cách áo xống cùng với lối trang sức Hà thành vẫn được bảo tồn như là một đặc trưng riêng của văn hóa Hà Nội, luôn được các đời Hà Nội giữ giàng ngay cả trong thời chiến đổi tranh gian khổ đến những năm bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc ở thời kinh tế thị trường. Theo Cinet |
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013
Nét đẹp trang phục của người Hà Nội xưa
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét