Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

“Ông gàn” kể chuyện phá cách cắm đất xây cầu.

Chính ra phải nói cây cầu là của bà ấy mới đúng”

“Ông gàn” kể chuyện cắm đất xây cầu

Nên, ông Thi đã cho xây trụ cầu to gấp 20 lần so với lực tác động của cây gỗ.

Sau khi vay thêm ngân hàng 100 triệu đồng, ông mới “nhờ” bà con chòm xóm, anh em họ hàng đến viện trợ. Những tưởng ông Thi sớm từ bỏ mơ ước của mình, nhưng hóa ra ông lại càng kiên trì hơn. Đỗ Huệ (NĐT). Cây cầu bảy nhịp do ông Thi bỏ tiền, bỏ công ra xây hoàn thành vào năm 2008   Năm 2011, cũng có tới hai nhịp cầu bị đánh bật.

Từ Văn Quan đến Tràng Định rồi lại Đồng Mỏ, Chi Lăng, tiền đi lại tốn kém thế nào ông cũng chịu. Thế mà “ông gàn” vẫn quyết tâm làm cho bằng được. Ngồi chuyện trò với vợ chồng ông bên tích trà xanh, nhìn thẳng ra dòng Kỳ Cùng, đang là mùa cạn nên dòng nước xanh lơ, chảy êm, trông khá hiền hòa, ông Thi bảo mùa này, gặp chỗ cạn, bắc vài thanh tre là vượt được sông.

Ông thuyết phục vợ, đi nuốm đất nhà để vay tiền ngân hàng. Tiền kiếm được từ việc chở đò mỗi ngày, ông không đưa cho vợ nữa mà để hà tằn hà tiện, mọi chi tiêu trong nhà được chuyển sang đôi vai gầy của vợ.

Ông bàn với vợ về ôm xây một cây cầu nối đôi bờ vui. Không hiểu được tính khí của “thủy thần” thì không làm cái nghề đưa khách sang sông được. Nói xong, ông mới ra chuồng dắt hai con trâu đem đi bán. Ông Thi kể, từ ngày kiên tâm xây cầu, cứ nghe thấy ở chỗ nào người ta xây cầu, ông lại lặn lội đến để học tập kinh nghiệm. Ông Thi bên cây cầu   Xây một cây cầu đâu phải dễ, mỗi ngày ông Thi cũng chỉ kiếm được từ vài chục đến vài trăm nghìn.

Bán trâu xong, số tiền gom được cũng chỉ chừng 200 triệu đồng, tính công thợ, tính phí nguyên liệu xây dựng cũng vẫn không đủ. Thấy ông kiên tâm, xóm thôn ban sơ cũng chỉ gọi ông là “gàn”, dần dà cũng hiểu và chia sẻ với ông. Cây cầu bê tông bảy nhịp trở thành một kỳ công của người dân huyện Văn Lãng, còn ông Chu Văn Thi lại trở thành một người hùng nhỏ bé trong mắt người dân ở đây.

Nghe tin đồn từ phía quần chúng, UBND huyện Văn Lãng cũng cử đoàn rà soát tới. Ông chỉ cười hể hả giả dụ có ai đó trêu mình giống như bà Nữ Oa đội đá vá trời. Có phải dễ đâu, ở một nơi mà cái ăn, cái mặc vẫn còn là nỗi đau đáu của nhiều người thì bỗng nhiên bỏ ra tiền trăm triệu để xây cầu chung quả là một việc “động trời”, đến người giàu còn không dám nghĩ đến, huống gì người nghèo khó như ông Thi.

Cuối năm 2012, ông Thi được cử đi Hà Nội dự lễ tuyên dương và được đích thân bộ trưởng bộ Giao thông vận tải trao tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong phong trào làm đường Giao thông ở nông thôn, nhưng đối với ông, sự khen thưởng lớn nhất vẫn là ánh mắt trìu mến của người dân mỗi khi qua cầu.

Cách tính tình của ông cũng chỉ đơn giản: quan sát dòng nước mùa lũ, ông phán đoán lực tác động của nước và các loại gỗ lớn trên cây cầu là bao lăm tấn.

Với vốn kiến thức “nông dân” chất phác, ông Thi phải khó khăn lắm mới hiểu được thế nà bê tông cốt thép, thế này trọng lực, lực đỡ,… rút cuộc, nhờ có sự quân sư của những người thợ giỏi khắp trong xã ngoài huyện, ông cũng thiết kế được cây cầu với các trụ xi măng cao 2m, mặt cầu rộng 2m, chiều dài mỗi nhịp 4m.

Ngày ấy, mọi hoạt động hỗ tương, buôn bán giữa hai thôn Lương Thác ( huyện Văn Lãng) và Điềm He ( huyện Văn Quan) đều phải qua sông nhờ con đò của ông. Tuy “độc quyền” trên khúc sông này nhưng ông lại không muốn giữ thế “độc quyền” ấy.

Ông Thi giàu cũng bởi cái tình, sự yêu mến của người dân dành cho. Sau đó kết luận muốn xây được cầu chi phí có khi phải lên tới tiền tỉ, phải thuê kĩ sư, thiết kế, xem đo đạc tử tế.

Tuy nhiên, nhìn thấy bà con cứ vai gồng vai gánh từng thúng hàng, chen chúc nhau, người lên được đò, người phải đứng đợi khiến ông phải nghĩ suy

“Ông gàn” kể chuyện cắm đất xây cầu

Một khúc gỗ to bằng một người ôm, dài 2m trôi với véc tơ vận tốc tức thời 10km/giờ thì sẽ tác động lên cầu một lực tương đương khoảng 1 tấn, kèm với lực đẩy của nước thì lực này sẽ tăng lên nhiều.

Thế là suốt nửa năm ròng, cả chục con người bao gồm bà con láng giềng, anh em góp công, góp sức cùng ông bê từng hòn đá, vác từng bao xi măng, mang từng cây sắt để dựng cầu. Sau khi lũ rút đi, ông lại phải bỏ ra thêm 50 triệu đồng nữa để xây lại.

Những hôm mưa gió, bất chấp hiểm, ông cũng soi đèn ra rà soát từng mống cầu. “Lúc ấy tôi cứng miệng lắm, nhưng bên trong thì cũng run không kém”, ông Thi tiết lậu.

Nhắc lại chuyện xưa, ông Thi cười bảo: “Cũng may bà ấy khác với người ta, tôi bảo gì bà ấy cũng thuận tình theo, đem vốn dĩ cả đời tích cóp được đem đi xây cầu. Hàng ngày, ông Thi vẫn cần mẫn kiếm, bê từng tảng đá lớn để kê thêm vào các trụ cầu.

Đến tháng 9/2008 thì cầu xây xong. Từ ngày có chiếc cầu, con đường liên huyện giữa huyện Văn Lãng và Văn Quan được nối liền. Nước từ thượng nguồn kéo về ào ào, ông sợ nước trôi quá mạnh, cây cầu không đủ lực sẽ bị cuốn trôi.

Tiếp quản con đò từ cha và ông nội năm 17 tuổi, ông Thi xác định đây là kế sinh nhai, phải bám dòng, bám nước mà sống. Nhất là khi mỗi năm có tới hàng chục người bị nước cuốn đi, nỗi buồn bên dòng sông cứ ám ảnh ông. Nhiều người khuyên ông nên trường đoản cú cây cầu đi, tuổi của ông cũng đến lúc dưỡng già rồi, số tiền tích cóp cũng đủ cho vợ chồng ông sống thanh thoát lúc cuối đời.

Nhìn những khúc gỗ từ thượng nguồn thi nhau thúc vào cầu khiến ông cũng muốn “rớt tim”. Ngày ngày vẫn vác đá đắp cầu  Cây cầu bắc ngang qua khúc sông Kỳ Cùng, nối liền hai huyện Văn Lãng- Văn Quan được xây kiên cố bằng bê tông cốt thép, dài tới hơn trăm mét, mỗi ngày lại nhộn nhịp xe cộ qua lại.

Của chồng công vợ  Chúng tôi tìm đến thôn Lương Thác, xã Nhạc Kỳ, (huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn), không khó khăn mấy để hỏi thăm được đến nhà ông Thi, người lái đò bao năm dòng dã trên sông Kỳ Cùng. Vấn đề tiếp theo mà ông Thi phải ứng phó là việc giữ cầu mùa nước lũ. Bà Thi cứ đợi, mười năm trôi qua, nhìn vào số tiền kiếm được thấy vẫn còn minh mông lắm. Nói là tôi xây cầu nhưng nếu không có bà ấy tần tảo thì làm sao xây được.

Sau hơn 20 năm, đến năm 2008, ông mới đủng đỉnh nói với vợ, bảo số tiền dành dụm được chắc cũng phải đến lúc đem ra dùng rồi.

Sau khi cây cầu hoàn thành, các cơ quan chức năng huyện Văn Lãng cũng đến đánh giá, rà, thẩm định chất lượng tiêu chuẩn. Căn nhà nhỏ, đơn sơ, tưởng dường như vớ tài sản của gia chủ cũng chỉ vẻn vẹn trong chừng mấy chục triệu đồng, ấy thế mà ông Thi vẫn kiêu hãnh giàu hơn khối người ở cái đất này. Giờ đây, khi cây cầu đã hoàn tất, chính quyền địa phương cũng cho phép ông được thu một phần phí tương hỗ trên cầu để bù đắp lại, sức ép kinh tế cũng đã giảm đi được phần nào, nhưng bà Thi vẫn tất bật ngược xuôi với việc đồng áng, lợn gà.

Ông cũng không cho xây lan can cầu vì sợ khi nước lên, có khi sẽ tràn lên đến mặt cầu, rác sẽ mắc theo, tạo nên lực kéo tác động lên cầu, sự hư hại sẽ nhanh hơn nhiều. Nhưng con sông này cũng “khái tính”, độ dốc cao nên chỉ cần một cơn mưa lớn là nước sông dâng lên rất cao, ào ào và xiết.

Bởi lẽ, căn nhà mà vợ chồng ông đang ở, ông gần như chơi tính, cái no đủ của công chính ở cây cầu mà bao năm ông dồn máu nóng vào, giờ đây ngày ngày vẫn ngược xuôi những thế cuộc hỗ tương. Được mất thế nào không biết, chỉ biết rủi ro thì nhiều. Nghe ông nói, ban đầu bà cũng chỉ nghĩ cho vui, nhưng không ngờ ông làm thật.

Chỉ cần hỏi ông Thi xây cầu, người ta đã rồi tận tình chỉ đến tận nơi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét